Thu Dau Mot University Journal of Science


Search Papers

Choose the options

Select form Topic

AND

Select Year

And type your research interest


23 papers


PERSULFATE ACTIVATION-INDUCED DEGRADATION OF AQUEOUS METHYL ORANGE CATALYZED BY CuO/MnO2 MIXED METAL OXIDES

Do Huynh Dong Thu, Ngo Minh Hieu, Nguyen Le Bach Diep, Huynh Thi Nha Truc, Le Nguyen Hai Hung, Nguyen Trung Hieu
MnO2 has the advantage of being environmentally friendly and abundant in soil, but its ability to activate persulfate is poor. This study combines MnO2 with CuO into a mixed metal oxide through a one-step reaction to increase the persulfate activation efficiency of the obtained product. These mixed oxides were synthesized by alkalization of a solution containing ions of two metals and then calcined at 300°C. The obtained oxide catalysts were characterized by methods such as FTIR, SEM, BET analysis, and zeta potential. The adsorption and decomposition of methyl orange (MO) were experimentally conducted in batch form using the above mixed metal oxides as adsorbents or persulfate activators. The results showed that the mixed oxides exhibited characteristic peaks in the FTIR spectrum, and were in the form of nanorods (CuO) and amorphous small particles (3:1CuO/MnO2). The CuO catalyst has a specific surface area of 20.23m²/g and pore sizes ranging from 20 to 30Å. The zeta potentials of both CuO and MO were highly negative, e.g., -46.5mV and -24.1mV, respectively. The adsorption capacities of MO onto the mixed oxides were quite low (~13.5%) and decreased gradually as the CuO content decreased. However, the persulfate activation capacity of the mixed oxides for MO decomposition was quite high, e.g., that of 3:1CuO/MnO2 for 40mg/L MO was 74.1%. In addition, the decomposition of MO almost followed pseudo-second-order reaction kinetics.
This article presents the history of Caritas Phu Cuong as a charity and social organization that plays an important role in helping the poor and disabled people of Binh Dương province. In addition, the article will also analyze the role and contributions of Caritas Phu Cuong in the field of charity for Binh Duong province in the following aspects: medical examination and medicine distribution for the poor people; life protection program; taking care of lonely elderly people; support people with disabilities to integrate into the community; build a library of books and toys for children; organize compassion classes for children of workers in difficult circumstances; bright path scholarship (Slovakia); environmental protection and human trafficking prevention programs. Finally, the article will discuss the role, functions and scope of activities of Caritas Phu Cuong in different historical periods to adapt to the changes in the socio-political context of Vietnam.
Phương pháp gamma truyền qua dựa trên nguyên lý suy giảm cường độ chùm tia gamma khi truyền qua vật chất được biết đến là một trong những kỹ thuật hữu ích cho phép kiểm tra trực tiếp các tháp và đường ống công nghiệp. Trong đó, hầu hết việc truyền tín hiệu từ đầu dò đến máy đo sử dụng cáp dẫn đến nhiều khó khăn trong việc lắp đặt và vận hành hệ đo tại hiện trường. Nhằm tăng tính linh hoạt, hệ đo gamma đơn kênh ứng dụng công nghệ truyền phát không dây trong điều khiển và thu nhận tín hiệu đã được đề xuất trong bài báo này. Hệ đo gồm các khối điện tử như khối cao thế, khối khuếch đại, khối cắt ngưỡng, khối vi điều khiển và khối truyền phát không dây. Thí nghiệm khảo sát phổ gamma của nguồn 60Co và 137Cs sau đó được thực hiện với khoảng cách giữa hệ đo và điểm đo khoảng 230 m. Kết quả cho thấy bề rộng ở một nửa giá trị cực đại ứng với các đỉnh năng lượng lần lượt là FWHM1173KeV = 9,4% và FWHM1332KeV = 7.6% đối với phổ gamma 60Co và FWHM663KeV = 15,4% đối với phổ gamma 137Cs. Kết quả khảo sát sự ổn định của hệ đo trong 10 giờ cho thấy độ trôi đỉnh năng lượng của nguồn 60Co là khoảng 2,3%.
Từ hơn mười năm qua, Quỹ Bertelsmann thực hiện dự án đánh giá quản trị bền vững cho các nước thuộc khối EU và OECD mang tên “Chỉ báo quản trị bền vững” (SGI). Dự án dựa trên một khung đánh giá quản trị bền vững có chất lượng cao về lý thuyết và đo lường thực nghiệm. Bài viết này giới thiệu khung lý thuyết của SGI, tập trung vào hợp phần chính sách xã hội, kết quả đánh giá thành quả chính sách xã hội năm 2018 do dự án thực hiện và gợi ý khả năng ứng dụng khung lý thuyết SGI vào phân tích chính sách xã hội và hành chính công ở Việt Nam.
Đề xướng CDIO hay sáng kiến CDIO (Conceive Design Implement Operate) là một dự án quốc tế lớn nhằm cải cách chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy của các trường kỹ thuật bậc đại học. Còn AUN-QA (ASEAN Uni versity Network – Quality Assurance) là bộ tiêu chuẩn với các quy tắc chất lượng khắt khe, có tiêu chí cụ thể, rõ ràng, tập trung đánh giá những điều kiện để đảm bảo chất lượng đào tạo của toàn bộ chương trình đào tạo của các trường đại học Đông Nam Á. Từ năm 2013 cho tới nay, trường Đại học Thủ Dầu Một đã ứng dụng không ngừng những tiêu chuẩn và tiêu chí của cả CDIO và AUN vào việc xây dựng chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm định chất lượng đào tạo để đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của những sản phẩm đầu ra, đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập khu vực, tiến tới hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo. Ngành Quốc tế học tuy mới được thành lập ở trường Đại học Thủ Dầu Một từ 2019, nhưng cũng đã áp dụng rất triệt để bộ tiêu chuẩn CDIO và AUN từ khâu lập đề án mở ngành cho tới xây dựng đề cương giảng dạy, tuyển sinh đầu vào và đổi mới phương pháp dạy – học. Bài tham luận của chúng tôi sẽ tập trung vào sự kết hợp xây dựng chương trình đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy theo những bộ tiêu chuẩn CDIO và AUN mà chúng tôi đã và đang áp dụng triển khai có hiệu quả ở ngành Quốc tế học.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang ảnh hưởng trực tiếp đến từng cá thể, gia đình, doanh nghiệp và đặc biệt chịu ảnh hưởng lớn nhất chính là môi trường giáo dục - nơi trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp 4.0. Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập mạnh mẽ với khu vực và quốc tế, việc xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn AUN-QA có một ý nghĩa quan trọng, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực của quá trình hội nhập và phát triển trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Cách mạng này vừa tạo ra những thời cơ, vừa đặt giáo dục đại học Việt Nam trước những thách thức mới diễn ra ngày càng nhanh. Đòi hỏi các cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam phải tiên phong trong nhận thức và hành động của mình để thích ứng với cuộc cách mạng này.Từ việc đánh giá vai trò của đội ngũ và công tác quản lý đội ngũ giảng viên trong trường đại học hiện nay, tác giả bài viết đã đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên trong trường đại học đáp ứng yêu cầu đào tạo theo chuẩn AUN-QA đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
Vận dụng và cải tiến các hình thức học và dạy học theo hướng tích cực luôn là những hoạt động thiết yếu trong việc cải thiện chất lượng đào tạo theo CDIO. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích các ưu và khuyết điểm của việc học tập cá nhân cũng như học tập nhóm trong trường Đại học dựa trên một loạt các quan sát, phỏng vấn và thảo luận nhóm, qua đó đề xuất một số phương pháp để nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên trong các môn học và làm đồ án. Mặc dù tất cả chúng ta đều nhận thức rõ ràng việc học tập nhóm đem lại những hiệu quả rõ rệt, nhưng kết quả là luôn có sự khác biệt trong quá trình hoàn thành nhiệm vụ giữa các sinh viên có trình độ kiến thức và tư duy không đồng đều nhau. Do đó, vấn đề trọng tâm được đặt ra là phát triển các kỹ năng giao tiếp cá nhân trong việc xây dựng nhóm. Việc tập trung vào thảo luận nhóm được theo dõi thông qua việc lấy ý kiến của từng sinh viên cuối cùng cũng đã cho thấy những phản hồi tích cực mặt dù vẫn còn một số sinh viên cho rằng phương pháp mới đòi hỏi họ phải dành nhiều thời gian hơn so với cách học bình thường, Tuy nhiên quan trọng hơn, từ việc lấy ý kiến này, chúng tôi cũng thu nhận được thêm một số phương pháp học tập mới cũng như cách thức tự hoàn thiện bản thân từ chính các sinh viên của chúng tôi.
Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội là mục tiêu chung của các cơ sở giáo dục. Trường ĐH Thủ Dầu Một triển khai áp dụng đề xướng CDIO để xác định chuẩn đầu ra (CĐR) cho các ngành đào tạo, trong đó chú trọng năng lực về thực hành nghề nghiệp cho sinh viên (SV) là CĐR quan trọng. Có thể nói, tiếp cận CDIO là một giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa giảng dạy và thực tiễn. Tuy nhiên, nó đã đặt ra cho cả người dạy và người học những thách thức lớn. Bài viết trình bày thực trạng về năng lực nghề của SV nhóm ngành công nghệ thông tin (CNTT) và nêu lên một số giải pháp đã thực hiện tại Viện Kỹ thuật Công nghệ nhằm nâng cao năng lực thực hành nghề nghiệp cho SV đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Kiểm tra đánh giá là khâu then chốt cuối cùng của qúa trình dạy học. Đây cũng là khâu quan trọng tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng đào tạo. Việc kiểm tra đánh giá khách quan, nghiêm túc, đúng cách, đúng hướng sẽ là động lực mạnh mẽ khích lệ sự vươn lên trong học tập của sinh viên, thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo không ngừng của sinh viên. Nội dung bài viết này đề cập thực trạng hệ thống đánh giá kết quả ở Trường Đại học Thủ Dầu Một, qua đó đề xuất biện pháp nâng cao chất lượng kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
Tại Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai, trong chương trình đào tạo kĩ sư chuyên ngành công nghệ kỹ thuật ô tô, các sinh viên sẽ được đào tạo lý thuyết tại trường và đi đào tạo thực tế tại doanh nghiệp vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 4. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xây dựng dự án cho sinh viên tham dự cuộc thi nghiên cứu cải tiến động cơ thi cuộc thi xe tiết kiệm nhiên liệu. Để đáp ứng được, sinh viên cần phải trang bị các kiến thức về: Nhiệt động lực học, điều khiển và mô phỏng các hệ thống động lực học, điện tử và hệ thống thủy lực. Công việc trên dự án được thực hiện theo nhóm từ 8 đến 10 sinh viên và sẽ hỗ trợ về lý thuyết chung được giảng dạy trong các khóa học, đồng thời sẽ cung cấp cho sinh viên các kỹ năng làm việc nhóm, làm việc trên dự án và xây dựng hệ thống. Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng sinh viên có thể học tốt thông qua hoạt động tích cực và thử nghiệm. Hơn nũa, sinh viên có thể phân tích và kiến nghị trên kết quả thu được.
Bài báo này trình bày kinh nghiệm về việc thực hiện bài giảng theo tiêu chuẩn CDIO “Nhận thức” và “Thực hiện”. Điều khiển truyền động cơ điện là môn học được chọn để phát triển năng lực của sinh viên, chẳng hạn như tư duy hệ thống , lý luận kỹ thuật và khám phá kiến thức. Để tăng cường sự hiểu biết và nhận thức về các nguyên tắc cơ bản kỹ thuật, một loạt các thử nghiệm cũng được lên lịch trong môn học này. Trong phần diễn thuyết, học tập dựa trên câu hỏi và học tập theo hướng thiết kế được áp dụng để nhấn mạnh chỉ thị thiết kế hoặc đặc tả yêu cầu xác định giai đoạn “Nhận thức”. Trong khi đó, trong chuỗi công việc trong phòng thí nghiệm, việc xác nhận theo yêu cầu của giai đoạn “Thực hiện” được kế thừa trong giai đoạn trước, trong và sau của toàn bộ quá trình thử nghiệm. Dựa trên các kết quả thực nghiệm, một dự án thiết kế – xây dựng – thử nghiệm quy mô nhỏ được sắp xếp vào cuối khóa học để nâng cao kinh nghiệm và kỹ năng kỹ thuật của sinh viên. Kết quả thu được cho thấy sự nhiệt tình của hầu hết các sinh viên và các báo cáo được trình bày tốt là rất tích cực chứng minh cho sự thành công của phương pháp này.
Rà soát, xây dựng và phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO trong giáo dục đại học hiện nay là một trong các hướng đi tất yếu trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới. Trên con đường hội nhập để phát triển, Đại học Mỏ – Địa chất là một trong các trường đại học đã và đang xây dựng chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO. Trong bài báo này xin được trình bày những kết quả ban đầu trong quá trình, ra soát, điều chỉnh và xây dựng chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO và chuẩn quốc tế trên cơ sở điều kiện vật chất hiện có của Nhà trường. Hy vọng rằng kết quả của bài báo sẽ đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình thực hiện được mục tiêu là triển khai phương pháp đào tạo: Hình thành ý tưởng – Thiết kế – Triển khai – Vận hành trong các Trường Đại học đa ngành định hướng nghiên cứu.
Giáo dục thế kỷ XXI được xem là một cuộc cách mạng trong bối cảnh toàn cầu hoá (TCH), giáo dục để con người trưởng thành, và giáo dục bậc cao học vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các trường đại học. Thiết kế một chương trình đào tạo làm sao để đảm bảo chất lượng đầu ra phù hợp với tiêu chí của nhà trường, của quốc gia và quốc tế, đào tạo con người có đầy đủ phẩm chất đạo đức nghề, năng lực làm việc chuyên nghiệp và khả năng nghiên cứu độc lập đối với chương trình đào tạo thạc sĩ Công tác xã hội (CTXH) là một thách thức rất lớn. Tiếp cận xây dựng chương trình theo CIDO là một phương pháp tiếp cận khoa học, hiện đại và có tính đảm bảo chất lượng cao đáp ứng với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực hiện nay. Điểm mạnh của chương trình đào tạo CTXH được xây dựng dựa trên chuẩn đầu ra phù hợp với mục tiêu đào tạo cho người học nâng cao tay nghề CTXH, có khả năng quản trị và nghiên cứu độc lập trong chuyên ngành CTXH. Điểm mạnh trong chương trình khoá 2020-2022 còn được nhấn mạnh về chính sách hỗ trợ học viên nghiên cứu khoa học độc lập có kinh phí và chính sách khen thưởng quy định bằng văn bản.
Chuẩn đầu ra môn học xây theo CDIO là một hệ thống năng lực bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ. Để xây dựng chuẩn đầu ra thì quá trình hoạt động dạy và học trên lớp của giảng viên và sinh viên là yếu tố quyết định để đạt được chuẩn đầu ra của học phần. Để đạt được chuẩn đầu ra học phần giảng viên thiết lập mối quan hệ giảng viên và sinh viên lấy sự học làm trung tâm; Xây dựng văn hóa học đường; Thực hiện các mô hình giảng dạy nhằm phát huy các tố chất và điều tiết quá trình nhận thức của sinh viên. Thiết kế, quản lý lớp học linh động trên cơ sở một kịch bản được xây dựng hướng đến phát triển toàn diện cho sinh viên và cũng là hiệu quả kép với việc đạt chuẩn đầu ra môn học theo đề cương CDIO.
Đối với sinh viên theo học mô đun “Dự án thiết kế và đổi mới” tại trường Đại học Công nghệ Đồng Nai, có thể nhận thấy rằng bước khó nhất trong chương trình CDIO là bước đầu tiên "hình thành ý tưởng". Phương pháp “Tư duy thiết kế” nhấn mạnh sự hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng thông qua các cuộc khảo sát và quan sát chi tiết của người dùng, sau đó tiến hành phân tích dữ liệu thu thập được. Phương pháp tư duy thiết kế có thể giúp sinh viên trong bước đầu về“hình thành ý tưởng” được hay không. Trong bài báo này sẽ mô tả về các thử nghiệm và sử dụng phương pháp tư duy thiết kế trong việc hình thành ý tưởng của một dự án CDIO. Đồng thời nó cũng chỉ ra những hạn chế và khó khăn ràng buộc của phương pháp này.
Nghiên cứu việc sử dụng các phương pháp học tập với sự hỗ trợ của máy tính để tăng cường tính tích cực học tập và tạo hứng thú để sinh viên ngành Điện tử học tập tốt hơn các môn điện tử tương tự và kỹ thuật số. Khi các môn Điện tử tương tự và Kỹ thuật số được thiết kế lại trong từng khóa học, sinh viên sẽ có hứng thú hơn trong việc học tập. Ngoài ra sinh viên còn có thêm động lực thực hiện các bài tập và chuẩn bị cho các bài học mới được dựa trên phương pháp mà Giảng viên cung cấp như các công cụ phần mềm mô phỏng (1) nhằm tăng tính tương tác. Tốt hơn nữa, một số bài tập về mạch điện – điện tử sẽ được giao cho sinh viên thực hiện dưới dạng mô phỏng trước và sau đó mới thực hiện trên các linh kiện thực tế. Hay nói cụ thể hơn là bài tập được thiết kế -xây dựng từ lý thuyết trên bài giảng, tiếp đến là mô phỏng trên máy tính và cuối cùng sẽ thực hiện mạch trên mô hình thực tế. Trên đây là phương pháp giảng dạy được nghiên cứu để ứng dụng CDIO vào học tập cho sinh viên ngành Điện tử tại trường Đại học Công Nghệ Đồng Nai. Trong quá trình học tập, sinh viên có thể tự do sáng tạo, làm ra được những sản phẩm học tập của riêng mình và tự đánh giá được quá trình học tập và tiếp thu của bản thân.
Bài viết này trình bày về cộng đồng giảng dạy học tập tích cực được tạo ra để hỗ trợ việc thực hiện giai đoạn cải cách chương trình giảng dạy theo mô hình CDIO. Cộng đồng mở cửa cho tất cả các giảng viên kỹ thuật. Cộng đồng giảng dạy này khuyến khích việc sử dụng học tập tích cực và công nghệ thông tin trong lớp học và cung cấp cho người hướng dẫn một khuôn khổ ngang hàng để hỗ trợ họ trong khi hình thành, thiết kế, thực hiện và đánh giá những đổi mới trong dạy học. Nó tuân theo một mô hình hỗ trợ việc chuyển giao các kinh nghiệm thành công qua các khóa học trong một chương trình và cả các chương trình kỹ thuật. Một trong những thành tựu chính là giúp cải thiện giao tiếp và tăng cường hợp tác giữa các giảng viên, được hỗ trợ trong việc giám sát và đánh giá việc thực hiện cải cách chương trình giảng dạy, được truyền cảm hứng nghiên cứu về giáo dục kỹ thuật giữa các thành viên và đóng góp cho khoa kế hoạch phát triển mà họ đang được thực hiện.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, hơn bao giờ hết ngành giáo dục đứng trước những thuận lợi và thách thức vô cùng to lớn. Thuận lợi đó chính là sự hỗ trợ từ công nghệ, nguồn học liệu đa dạng. Tuy nhiên khó khăn là ngành giáo dục phải làm sao để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Được thành lập từ năm 2009 đến nay Trường Đại học Thủ Dầu Một cũng không tránh được những khó khăn chung đó và nhà trường đã có những thay đổi không ngừng để bắt kịp tình hình mới. Trong bối cảnh đó bài viết phân tích những thuận lợi và khó khăn của giảng viên đại học Thủ Dầu Một trong việc tích hợp đề cương theo hướng CDIO và AUN như là một trong những giải phải pháp để nâng cao chất lượng giảng dạy của Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Kỹ thuật dạy – học KWLH là tên được viết tắt các từ tiếng Anh: Know, Want to Know, Learned và How to learn more. Kỹ thuật này được đề xuất bởi Donna Ogle vào năm 1986, nhằm cải thiện quá trình dạy - học, đặc biệt là việc hướng dẫn sinh viên học tập chủ động, tự nghiên cứu tài liệu. Dựa trên trải nghiệm kỹ thuật này trong giảng dạy các học phần, bài viết này chúng tôi phân tích các bước thực hiện kỹ thuật KWLH trong quá trình dạy - học trên lớp cũng như hướng dẫn sinh viên tự học nhằm giúp sinh viên tăng cường tính chủ động, tích cực trong việc học và đạt được chuẩn đầu ra theo Tiêu chuẩn 8 - Học tập chủ động của đề xướng CDIO.

NGHIÊN CỨU NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SINH VIÊN BẰNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP THEO DỰ ÁN KẾT HỢP LÀM VIỆC NHÓM

Thái Hùng Cường, Võ Thanh Tùng, Võ Hồng Ngân, Nguyễn Xuân Toại, Nguyễn Thị Hiền, Lê Xuân Vịnh
Mục đích của nghiên cứu này là khám phá xem liệu các kỹ năng cần thiết mà chúng tôi cố gắng phát triển thông qua các dự án CDIO có thể đủ được sinh viên công nhận và liệu mức độ tin cậy của sinh viên có phù hợp với nhận thức của giảng viên về những kỹ năng đó. Trong hơn hai năm học thiên về kiến thức đại cương và lý thuyết chuyên ngành, sinh viên sẽ trải qua trong năm học cuối cùng của mình để hoàn thành tấm bằng. Các chương trình kiểm tra này nhằm mục đích để đạt được mức độ tự tin về các kỹ năng liên quan đến các tiêu chuẩn CDIO. Sinh viên cũng được đánh giá về các kỹ năng bằng dự án học tập của họ ở bài kiểm tra. Kết quả cho thấy trong hầu hết các trường hợp, học sinh tự tin vào khả năng của chính họ hơn là giảng viên nhận thấy khả năng của họ. Chúng tôi cũng đã khám phá những yếu tố khác ảnh hưởng đến sự tự tin và khả năng của sinh viên. Các yếu tố bao gồm cả việc họ tích cực sử dụng theo quy trình CDIO. Chúng tôi kết luận rằng sinh viên gặp khó khăn trong việc chuyển giao giữa kỹ năng làm việc nhóm sang làm việc cá nhân trong việc thực hiện khóa luận tốt nghiệp cá nhân và sự can thiệp của giảng viên có thể đưa kỳ vọng và sự tự tin của họ lên mức thực tế hơn, đồng thời hỗ trợ sự chuyển đổi giữa các kỹ năng làm việc của sinh viên.
Quá trình đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở Việt Nam được đánh giá là một xu thế tất yếu, mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và người lao động. Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thích ứng và đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải không ngừng đổi mới, cải tiến chương trình đào tạo, phương pháp tiếp cận và giảng dạy. Qua đó thu hẹp khoảng cách giữa chất lượng đào tạo và nhu cầu của các doanh nghiệp. Song song với đó, về phía người học cần nhận thức được tầm quan trọng của việc chủ động lĩnh hội tri thức, bổ sung và rèn luyện kỹ năng, để sau quá trình đào tạo sẵn sàng và đáp ứng được các tiêu chuẩn về năng lực làm việc của doanh nghiệp. Bài viết tập trung vào thực trạng kỹ năng mềm của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một và đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng mềm đạt chuẩn đầu ra theo CDIO.
Xu hướng giáo dục thế giới hiện nay là gắn liền đào tạo với nghiên cứu khoa học và học để trải nghiệm. Trên tinh thần đó, Đại học Duy Tân (DTU) luôn hướng tới triển khai mô hình đào tạo giáo dục hiện đại, khoa học, sáng tạo, phục vụ mục tiêu đào tạo ra những sinh viên được trang bị đầy đủ tri thức. “Giáo dục 4.0” được coi là mô hình mà DTU đang hướng tới, đó là tương lai của giáo dục, học tập chủ động, lấy học sinh làm trung tâm, linh hoạt cả về thời gian và địa điểm, học tập dựa trên dự án và trải nghiệm, đáp ứng nhu cầu của Công nghiệp 4.0. Cuối cùng, chúng tôi sử dụng các thông số định lượng để đánh giá hiệu quả của các phương pháp đề xuất: tỷ lệ phần trăm học sinh đạt kết quả thành thạo trở lên trong các tiêu chuẩn ABET 1, 3, 5, 7; tổng thời gian nghiên cứu và mức độ hài lòng của sinh viên.
Binh Duong has rapidly transformed during the period 1999-2009, from a agricultural province to industrial one. The paper explores the shift of occupation-based social structure of Binh Duong during that period. Using the data sets of Census 1999 and 2009, the paper analyses the evolution of the occupational figure in Binh Duong by ten occupational categories and four occupational strata, and the differences in this figure by residence, gender, ethnic, and religious variables. Findings show that the occupational structure of Binh Duong is more developed than the one of the Southern Key Economic Zone. Its change in rural areas is more significant than in urban areas. There are not considerable differences by gender, ethnicity, and religiousness. The findings are suggestive for a further analysis using the data set of Census 2019 on the evolution of occupational figures in Binh Duong during the previous twenty years (1999-2019).

Publication Information

Publisher

Thu Dau Mot University, Viet Nam

Editor-in-Chief

Assoc. Prof. Nguyen Van Hiep
Thu Dau Mot University

Editorial Board

Assoc. Prof. Le Tuan Anh
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Quoc Cuong
Thu Dau Mot University

PhD. Doan Ngoc Xuan
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Khoa Truong An
Thu Dau Mot University

Assoc. Prof. Nguyen Thanh Binh
Thu Dau Mot University
PhD. Le Thi Thuy Dung
Thu Dau Mot University

PhD. Ngo Hong Diep
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Duc Dat Duc
Ho Chi Minh City University of Industry and Trade

Assoc. Prof. Nguyen Van Duc
Animal Husbandry Association of Vietnam
PhD. Nguyen Thi Nhat Hang
Department of Education and Training of Binh Duong Province

PhD. Nguyen Thi Cam Le
Vietnam Aviation Academy
PhD. Trần Hạnh Minh Phương
Thu Dau Mot University

M.A. Pham Van Thinh
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Thi Lien Thuong
Thu Dau Mot University

Prof. Le Quang Tri
Can Tho University
Prof. Banh Quoc Tuan
Thu Dau Mot University