As the most significant pollinators of wild plants, bees play an important role in sustaining the natural ecosystems. In this study, we conducted surveys of bee fauna of three different habitat types during dry and rainy seasons of 2020 in Binh Chanh District, Ho Chi Minh City. A total of 169 individuals from 13 bee species belonging to six genera were collected. Of these, eight species are newly recorded from Ho Chi Minh City: Amegilla calceifera, A. himalajensis, A. zonata, Ceratina nigrolateralis, C. smaragdula, Xylocopa aestuan, X. latipes, Tetragonula fuscobalteata. The species composition of bees was more diverse in forest habitat than rural garden and canalbank habitats. The richness and abundance of bees were significantly higher in the dry season than the rainy season. Apis florea was abundant in forest and rural garden habitats while Ceratina smaragdula occurred plentifully in the canalbank habitat. Eight bee species (Apis cerana, A. dorsata, A. florea, Thyreus himalayensis, Xylocopa latipes, X. aestuans, Ceratina smaragdula, and C. nigrolateralis) widely distributed throughout all three habitats. By contrast, four bee species (Amegilla calceifera, A. himalajensis, Apis mellifera, and Tetragonula fuscobalteata) exclusively appeared in the forest habitat.
In recent years, there have been more studies on the Vietnamese workers’s life in the industrial zones. However, the research on career and social status of the workers is still a desert. This article investigates how Vietnamese workers perceive their career and social status. Data were collected through survey by quantitative questionnaire and in-depth interviews with 800 samples in industrial zones of Binh Duong Province of Vietnam. Finding results show that: (1) The workers evaluated their career and social status at an average level in compared to other classes in society. (2) With an average level, the voices of workers have not received adequate attention from the companies, government and unions when conflict of interest occurs. The workers’s experiences in daily social interaction is one of the reasons why workers perceive themselves in lower status than other classes in the social hierarchy. Further studies should be attentioned on individual experience through discourse to understanding the worker’s life.
The fifth generation (5G) cellular network has been commercialized recently to fulfill the new demands such as very high data exchange rate, extra low latency and high reliability. Many new technologies have been introduced and exploited since the early of the 2010s. Among these emerging technologies, full-duplex relaying cognitive radio networks, device-to-device communications and cell-free massive multiple-input and multiple-output have been considered as promising technologies/systems for 5G and beyond. This work provides a comprehensive study on the concepts, advantages and challenges of the above-mentioned technologies. In addition, we also introduce four new research directions which are challenges of 5G and beyond.
Measuring environmental protection activities is a matter of great concern over the years. In this study, the indicators for evaluating environmental protection activities in industrial parks was built according to the PDSIR model and based on Vietnam's legal framework, including 18 main subjects and 35 indicators. The environmental performance index of industrial park (EPIIP) was established based on the multi-criteria evaluation method and the analytic hierarchy process method. The results of the study indicated that the VSIP I industrial park reached 68.95 points (relatively good level). Moreover, the results also showed that VSIP I was one of the industrial parks practicing good performance to protect environmental problems.
Dipterocarpus dyeri is a typical plant of tropical evergreen moist forest at Southeast Vietnam. These plants have been planted popularly at parks and urban streets for the shade and it has been commonly materials for timber industry. Multiplication of Dipterocarpus dyeri at nurseries could face to some diseases, such as the withered disease cause serial death. Our study isolated three disease fungi strains from the root areas of the diseased Dipterocarpus dyeri planted Ma Da nursery, Dong Nai province. Result of 28s rDNA sequencing showed these fungi belong to Ophiostoma eucalypticagena, Aspergillus nidulans and Collectotrichum gloeosporioides. This result is base for conducting the following studies to control the withered disease on Dipterocarpus dyeri at the nursery.
One of the most problematic areas for foreign language learning is collocation. It is often seen as a seemingly insurmountable obstacle to the attainment of native like fluency. The following study takes an approach as a linguistic one by analyzing semantic features of the English collocations with „make‟, which is widely used in the international criminal documents. The thesis analyzing their semantic features according to the categorization of the English collocations with „make‟ used in the international criminal documents in order to find out the difficulties for learners and translators in dealing with these collocations as well as to impose the suggestions for these difficulties.
Bài viết này tìm hiểu mối quan hệ giữa đình với người cúng đình nhằm giải thích sự tồn sinh của đình trong bối cảnh đô thị hóa hiện nay. Sử dụng cách tiếp cận Nhân học và nguồn tư liệu điền dã tại một số ngôi đình ở thành phố Thủ Dầu Một, thị xã Thuận An, thị xã Dĩ An và thị xã Tân Uyên, bài viết phát hiện và phân tích sự biến đổi chức năng tương tế của đình ở các điểm dân cư có mức độ đô thị hóa khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa đình với người cúng đình thông qua lễ bái quan hiện vẫn còn duy trì đầy đủ, đảm bảo chức năng tương tế tại các đình được khảo sát. Chức năng tương tế của đình nếu được duy trì sẽ góp phần cố kết cộng đồng người cúng đình và dự báo khả năng tồn sinh của đình trong bối cảnh đô thị hóa.
Đề xướng CDIO hay sáng kiến CDIO (Conceive Design Implement Operate) là một dự án quốc tế lớn nhằm cải cách chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy của các trường kỹ thuật bậc đại học. Còn AUN-QA (ASEAN Uni versity Network – Quality Assurance) là bộ tiêu chuẩn với các quy tắc chất lượng khắt khe, có tiêu chí cụ thể, rõ ràng, tập trung đánh giá những điều kiện để đảm bảo chất lượng đào tạo của toàn bộ chương trình đào tạo của các trường đại học Đông Nam Á. Từ năm 2013 cho tới nay, trường Đại học Thủ Dầu Một đã ứng dụng không ngừng những tiêu chuẩn và tiêu chí của cả CDIO và AUN vào việc xây dựng chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp dạy học và kiểm định chất lượng đào tạo để đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của những sản phẩm đầu ra, đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập khu vực, tiến tới hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo. Ngành Quốc tế học tuy mới được thành lập ở trường Đại học Thủ Dầu Một từ 2019, nhưng cũng đã áp dụng rất triệt để bộ tiêu chuẩn CDIO và AUN từ khâu lập đề án mở ngành cho tới xây dựng đề cương giảng dạy, tuyển sinh đầu vào và đổi mới phương pháp dạy – học. Bài tham luận của chúng tôi sẽ tập trung vào sự kết hợp xây dựng chương trình đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy theo những bộ tiêu chuẩn CDIO và AUN mà chúng tôi đã và đang áp dụng triển khai có hiệu quả ở ngành Quốc tế học.
Sinh viên chuyên ngành Kỹ thuật Điện & Điện tử (EEE) có khả năng tạo ra một số sản phẩm thông qua việc học tập dựa trên đồ án CDIO để khởi nghiệp. Tuy nhiên, họ thiếu khả năng đổi mới liên tục để đạt được hiệu quả khởi nghiệp. Trong quá trình thực hiện giảng dạy CDIO ởTrường Đại học Duy Tân, chúng tôi đã tích lũy được một số kinh nghiệm để giải quyết vấn đề này và thu được một số kết quả khả quan và sẽ được trình bày trong bài viết này. Đóng góp đầu tiên là một đề xuất về một mô hình dạy và học để nâng cao khả năng khởi nghiệp, cụ thể là CDIO khép kín dựa trên mô hình CDIO thông thường. Sau giai đoạn Vận hành (Operation), sinh viên được khuyến khích và đào tạo để tiếp tục hình thành ý tưởng mới để cải tiến hoặc tạo ra sản phẩm mới dựa trên ý tưởng trước đó. Các vấn đề cải tiến bao gồm bổ sung tính năng, cải thiện thông số kỹ thuật, xem xét về chi phí bảo trì, v.v. Khung CDIO khép kín cho phép chúng tôi cải thiện khả năng đổi mới liên tục của sinh viên EEE để nâng cao sự cạnh tranh của sản phẩm được họ tạo ra. Trong mô hình được đề xuất này, chúng tôi nhấn mạnh sự đổi mới không ngừng để đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Đóng góp thứ hai của bài viết này là việc đánh giá khung đề xuất này dựa trên các sản phẩm được chấp nhận trên thị trường. Chúng tôi đã điều tra thống kê sau năm năm thực hiện khung CDIO này trong khoa của chúng tôi từ 2013-2014 đến 2017-2018 và kết quả khẳng định tính hiệu quả của mô hình đề xuất. Để làm rõ hiệu quả, chúng tôi cũng trình bày một trường hợp thực tế, đó là các sản phẩm nhà thông minh. Trong trường hợp đó, chúng tôi mô tả chi tiết quy trình áp dụng khung CDIO khép kín để nâng cao khả năng khởi động dựa trên các sản phẩm nhà thông minh. Chúng tôi sẽ thảo luận chi tiết hơn về các công trình của chúng tôi để giải quyết những vấn đề này trong báo cáo đầy đủ.
Đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của xã hội là mục tiêu chung của các cơ sở giáo dục. Trường ĐH Thủ Dầu Một triển khai áp dụng đề xướng CDIO để xác định chuẩn đầu ra (CĐR) cho các ngành đào tạo, trong đó chú trọng năng lực về thực hành nghề nghiệp cho sinh viên (SV) là CĐR quan trọng. Có thể nói, tiếp cận CDIO là một giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa giảng dạy và thực tiễn. Tuy nhiên, nó đã đặt ra cho cả người dạy và người học những thách thức lớn. Bài viết trình bày thực trạng về năng lực nghề của SV nhóm ngành công nghệ thông tin (CNTT) và nêu lên một số giải pháp đã thực hiện tại Viện Kỹ thuật Công nghệ nhằm nâng cao năng lực thực hành nghề nghiệp cho SV đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Bắt đầu từ Năm học 2014-2015, Trường Đại học Thủ Dầu Một đã triển khai xây dựng chương trình đào tạo theo CDIO đồng bộ cho tất cả các nhóm ngành (trong đó có ngành Sư phạm Lịch sử, một trong những ngành quan trọng của Nhà trường). Dạy học theo hướng tiếp cận CDIO là một điều kiện tiên quyết để Nhà trường đi đúng hướng trong quá trình phát triển theo đúng mục tiêu của Trường. Trên tinh thần tiếp cận CDIO, nhà trường và chương trình đào tạo (CTĐT) sư phạm lịch sử lựa chọn xây dựng chương trình theo chuẩn AUN-QA không chỉ đem lại lợi ích cho nhà trường, sinh viên mà cả người sử dụng lao động. Qua hơn 5 năm triển khai xây dựng chương trình đào tạo Sư phạm Lịch sử theo hướng tiếp cận CDIO và chuẩn AUN-QA nhà trường đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận để lại nhiều kinh nghiệm quý giá trong quá trình xây dựng và phát triển CTĐT. Đặc biệt tháng 2/2020, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội đã công nhận CTĐT Sư phạm Lịch sử là một trong bốn CTĐT của Trường đã đạt được các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng CTĐT do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Trong bối cảnh giáo dục đại học hiện nay, kết quả học tập hay chuẩn đầu ra là yếu tố quan trọng nhất của một chương trình đào tạo, tất cả các hoạt động dạy – học và phương pháp đánh giá phải được gắn liền với kết quả học tập. Việc xây dựng kết quả học tập mong đợi/chuẩn đầu ra của sinh viên một cách cụ thể, đo lường được, có thể đạt được, phù hợp… là yêu cầu của đề xướng CDIO và cũng là tiêu chí để đạt chuẩn kiểm định AUN-QA. Bài viết này, chúng tôi phân tích quá trình xây dựng chuẩn đầu ra theo CDIO, sự tương đồng trong việc xây dựng chuẩn đầu ra theo CDIO với kết quả học tập mong đợi theo chuẩn kiểm định AUN-QA. Kết quả cho thấy, một chuẩn đầu ra tốt theo CDIO sẽ là một trong những yếu tố quan trọng nhất để làm nên thành công của chương trình, mang lại lợi ích cho người học, giáo viên, nhà trường, nhà tuyển dụng và đáp ứng được chuẩn kiểm định theo AUN-QA.
Tại Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai, trong chương trình đào tạo kĩ sư chuyên ngành công nghệ kỹ thuật ô tô, các sinh viên sẽ được đào tạo lý thuyết tại trường và đi đào tạo thực tế tại doanh nghiệp vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 4. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xây dựng dự án cho sinh viên tham dự cuộc thi nghiên cứu cải tiến động cơ thi cuộc thi xe tiết kiệm nhiên liệu. Để đáp ứng được, sinh viên cần phải trang bị các kiến thức về: Nhiệt động lực học, điều khiển và mô phỏng các hệ thống động lực học, điện tử và hệ thống thủy lực. Công việc trên dự án được thực hiện theo nhóm từ 8 đến 10 sinh viên và sẽ hỗ trợ về lý thuyết chung được giảng dạy trong các khóa học, đồng thời sẽ cung cấp cho sinh viên các kỹ năng làm việc nhóm, làm việc trên dự án và xây dựng hệ thống. Kết quả nghiên cứu chứng minh rằng sinh viên có thể học tốt thông qua hoạt động tích cực và thử nghiệm. Hơn nũa, sinh viên có thể phân tích và kiến nghị trên kết quả thu được.
Khoa Kinh tế Trường Đại học Thủ Dầu Một đã áp dụng chương trình đào tạo theo đề xướng CDIO làm bối cảnh đào tạo sinh viên từ năm 2016. Khoa Kinh tế đã áp dụng CDIO trong việc phát triển chương trình đào tạo cho cả 6 chương trình; cụ thể là Quản trị kinh doanh, Kế toán, Tài chính ngân hàng, Quản lý công nghiệp, Logistic và quản lý chuỗi cung ứng, Du lịch. Trong quá trình xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, chúng tôi đã thực hiện khảo sát các bên liên quan để xác định chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, thiết kế chương trình giảng dạy hoà hợp tích cực đem đến kết quả học tập mong đợi đáp ứng chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, tất cả các chương trình đều áp dụng dạy học phần Nhập môn ngành cho sinh viên năm nhất, nhằm giới thiệu cho sinh viên một cái nhìn tổng thể về ngành nghề mà mình theo học, để sinh viên được trải nghiệm thực tế ngay từ năm đầu tiên. Từ đó, giúp sinh viên có đam mê và nhiệt huyết đối với ngành nghề đã chọn. Sinh viên được trải nghiệm không gian khởi nghiệp và sáng tạo ngay tại trường. Bài viết giới thiệu việc áp dụng 12 tiêu chuẩn CDIO vào việc cải tiến chương trình đào tạo của khối ngành kinh tế.
Dự án nghiên cứu và xây dựng chương trình đào tạo thực hành theo chuẩn CDIO cho Chương trình Công nghệ Kỹ thuật điện tử đang được thử nghiệm tại DNTU. Để đào tạo ra những kỹ sư tài năng, một chương trình giảng dạy phù hợp, dựa trên nhu cầu thực tế của doanh nghiệp đã và đang được phát triển. Khác với phương pháp truyền thống, lí thuyết và thực hành được sử dụng đồng thời để xây dựng chương trình mới theo giáo trình CDIO. Sự hướng dẫn đồng thời từ giảng viên và các kỹ sư, chuyên gia trong ngành, mục đích đào tạo sinh viên với kế hoạch được cá nhân hóa. Các sinh viên tài năng sẽ được phân công giúp đỡ bạn học. Phương pháp giảng dạy dựa trên vấn đề, dựa trên tình huống và dựa trên dự án được điều chỉnh trong lớp với nhiều phương pháp đánh giá được sử dụng. Cải cách CDIO trong chương trình Công nghệ kỹ thuật điện tử đã bước đầu đạt được những thành công.
Trong bài báo này đề cập đến phương pháp xây dựng bài giảng môn Tự động hóa quá trình công nghệ dành cho sinh viên chuyên ngành Kỹ thuật Điện – Điện tử của Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai (DNTU). Mục tiêu chính của môn học là nhấn mạnh vào các kĩ năng: Làm việc nhóm, làm việc độc lập, cách giải quyết vấn đề, thiết kế và vận hành các hệ thống điều khiển tự động. Bài giảng được xây dựng dựa trên việc phân chia các nhóm sinh viên (mỗi nhóm gồm có 5 sinh viên) thực hiện trên bài tập lớn được giao ở trong phòng thí nghiệm. Cách thực hiện bài tập trong phòng thí nghiệm của sinh viên: Trước tiên sinh viên phải có một bài giới thiệu, trong bài giới thiệu nêu rõ: Cách giải quyết vấn đề, công tác chuẩn bị công việc, cách làm việc độc lập trong phòng thí nghiệm, cách làm việc nhóm . Sau đó sẽ là một buổi báo cáo tổng kết. Ngoài ra, có một dự án nhỏ mà nhiệm vụ của sinh viên là viết hướng dẫn quy trình sử dụng cho người vận hành. Để làm được điều này yêu cầu sinh viên phải hiểu biết sâu về hệ thống điều khiển PLC trong công nghiệp (Bộ điều khiển lập trình logic), phát triển giao diện điều khiển người máy và HMI, cảm biến công nghiệp, các cơ cấu chấp hành.
Bài báo này trình bày kinh nghiệm về việc thực hiện bài giảng theo tiêu chuẩn CDIO “Nhận thức” và “Thực hiện”. Điều khiển truyền động cơ điện là môn học được chọn để phát triển năng lực của sinh viên, chẳng hạn như tư duy hệ thống , lý luận kỹ thuật và khám phá kiến thức. Để tăng cường sự hiểu biết và nhận thức về các nguyên tắc cơ bản kỹ thuật, một loạt các thử nghiệm cũng được lên lịch trong môn học này. Trong phần diễn thuyết, học tập dựa trên câu hỏi và học tập theo hướng thiết kế được áp dụng để nhấn mạnh chỉ thị thiết kế hoặc đặc tả yêu cầu xác định giai đoạn “Nhận thức”. Trong khi đó, trong chuỗi công việc trong phòng thí nghiệm, việc xác nhận theo yêu cầu của giai đoạn “Thực hiện” được kế thừa trong giai đoạn trước, trong và sau của toàn bộ quá trình thử nghiệm. Dựa trên các kết quả thực nghiệm, một dự án thiết kế – xây dựng – thử nghiệm quy mô nhỏ được sắp xếp vào cuối khóa học để nâng cao kinh nghiệm và kỹ năng kỹ thuật của sinh viên. Kết quả thu được cho thấy sự nhiệt tình của hầu hết các sinh viên và các báo cáo được trình bày tốt là rất tích cực chứng minh cho sự thành công của phương pháp này.
Rà soát, xây dựng và phát triển chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO trong giáo dục đại học hiện nay là một trong các hướng đi tất yếu trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới. Trên con đường hội nhập để phát triển, Đại học Mỏ – Địa chất là một trong các trường đại học đã và đang xây dựng chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO. Trong bài báo này xin được trình bày những kết quả ban đầu trong quá trình, ra soát, điều chỉnh và xây dựng chương trình đào tạo theo tiếp cận CDIO và chuẩn quốc tế trên cơ sở điều kiện vật chất hiện có của Nhà trường. Hy vọng rằng kết quả của bài báo sẽ đóng góp một phần nhỏ vào tiến trình thực hiện được mục tiêu là triển khai phương pháp đào tạo: Hình thành ý tưởng – Thiết kế – Triển khai – Vận hành trong các Trường Đại học đa ngành định hướng nghiên cứu.
Giáo dục thế kỷ XXI được xem là một cuộc cách mạng trong bối cảnh toàn cầu hoá (TCH), giáo dục để con người trưởng thành, và giáo dục bậc cao học vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các trường đại học. Thiết kế một chương trình đào tạo làm sao để đảm bảo chất lượng đầu ra phù hợp với tiêu chí của nhà trường, của quốc gia và quốc tế, đào tạo con người có đầy đủ phẩm chất đạo đức nghề, năng lực làm việc chuyên nghiệp và khả năng nghiên cứu độc lập đối với chương trình đào tạo thạc sĩ Công tác xã hội (CTXH) là một thách thức rất lớn. Tiếp cận xây dựng chương trình theo CIDO là một phương pháp tiếp cận khoa học, hiện đại và có tính đảm bảo chất lượng cao đáp ứng với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực hiện nay. Điểm mạnh của chương trình đào tạo CTXH được xây dựng dựa trên chuẩn đầu ra phù hợp với mục tiêu đào tạo cho người học nâng cao tay nghề CTXH, có khả năng quản trị và nghiên cứu độc lập trong chuyên ngành CTXH. Điểm mạnh trong chương trình khoá 2020-2022 còn được nhấn mạnh về chính sách hỗ trợ học viên nghiên cứu khoa học độc lập có kinh phí và chính sách khen thưởng quy định bằng văn bản.
Bài báo này đề cập đến chương trình đào tạo sinh viên ngành Công nghệ Kỹ thuật điện tử kéo dài 4 năm đã được triển khai tại trường Đại học Công nghệ Đồng Nai. Các sinh viên phát triển kiến thức và kỹ năng từ người mới học điện tử trở thành người có kinh nghiệm như các nhà thiết kế mạch. Chương trình đào tạo mang tính định hướng cao và tất cả các học phần đều tập hợp xung quanh một bộ tiêu chuẩn đã được xem xét kỹ lưỡng. Chương trình đào tạo đặt trọng tâm vào bốn dự án thiết kế – triển khai (dự án kỹ thuật, dự án kỹ thuật đa ngành, thực tập chuyên ngành và khóa luận tốt nghiệp) và tuân thủ đúng các nguyên tắc CDIO (Conceive – Design – Implement – Operate: Hình thành – Thiết kế – Triển khai – Vận hành). Ở năm đầu tiên, dự án có độ khó thấp, thách thức tăng lên đáng kể trong những năm tiếp theo. Sinh viên học được rằng thiết kế sản phẩm là một quá trình lặp đi lặp lại ở các cấp độ khác nhau. Các đánh giá đã chứng minh rằng sinh viên không chỉ nhận thức được các nguyên tắc CDIO mà còn bị thuyết phục bởi chất lượng đào tạo khi tuân theo các tiêu chuẩn này.
Chuẩn đầu ra môn học xây theo CDIO là một hệ thống năng lực bao gồm kiến thức, kỹ năng và thái độ. Để xây dựng chuẩn đầu ra thì quá trình hoạt động dạy và học trên lớp của giảng viên và sinh viên là yếu tố quyết định để đạt được chuẩn đầu ra của học phần. Để đạt được chuẩn đầu ra học phần giảng viên thiết lập mối quan hệ giảng viên và sinh viên lấy sự học làm trung tâm; Xây dựng văn hóa học đường; Thực hiện các mô hình giảng dạy nhằm phát huy các tố chất và điều tiết quá trình nhận thức của sinh viên. Thiết kế, quản lý lớp học linh động trên cơ sở một kịch bản được xây dựng hướng đến phát triển toàn diện cho sinh viên và cũng là hiệu quả kép với việc đạt chuẩn đầu ra môn học theo đề cương CDIO.
Đối với sinh viên theo học mô đun “Dự án thiết kế và đổi mới” tại trường Đại học Công nghệ Đồng Nai, có thể nhận thấy rằng bước khó nhất trong chương trình CDIO là bước đầu tiên "hình thành ý tưởng". Phương pháp “Tư duy thiết kế” nhấn mạnh sự hiểu biết sâu sắc về người tiêu dùng thông qua các cuộc khảo sát và quan sát chi tiết của người dùng, sau đó tiến hành phân tích dữ liệu thu thập được. Phương pháp tư duy thiết kế có thể giúp sinh viên trong bước đầu về“hình thành ý tưởng” được hay không. Trong bài báo này sẽ mô tả về các thử nghiệm và sử dụng phương pháp tư duy thiết kế trong việc hình thành ý tưởng của một dự án CDIO. Đồng thời nó cũng chỉ ra những hạn chế và khó khăn ràng buộc của phương pháp này.
Trong chương trình đào tạo chuyên ngành Kỹ thuật Điện –, Điện tử tại Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai, cũng như tại các trường đại học kỹ thuật khác, các học phần chuyên ngành đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển kiến thức, kỹ năng, cả về thái độ và đạo đức nghề nghiệp cho sinh viện sau khi ra trường. Tuy nhiên. việc đào tạo theo phương pháp, mô hình chuyển giao kiến thức không còn phù hợp với thời đại công nghiệp 4.0 mà dần chuyển sang mô hình đào tạo chú trọng đến phát triển các kỹ năng nghề nghiệp theo định hướng CDIO. Bộ môn Công nghệ Kỹ thuật Điện –, Điện tử, Khoa Công nghệ ngay từ năm 1, năm 2, trong những môn cơ sở ngành đã tích cực cho sinh viên đi kiến tập, tham quan nhà máy nhằm quan sát, hình thành các ý tưởng. Các học phần chuyên ngành ở năm 3, năm 4 được thiết kế và thực thiện theo dự án – CDIO. Việc triển khai các học phần này theo CDIO, qua các bước: (1) đề xuất hoặc chọn lựa các ý tưởng, (2) thiết kế, tìm hiểu ý tưởng với sự hỗ trợ của cố vấn và bảo vệ ý tưởng trước hội đồng, (3) thực hiện ý tưởng đó. Trong bài báo này, chúng tôi trình bày phương pháp học tập cho các nhóm của sinh viên để thực hiện việc thiết kế, thi công giải pháp cải tiến kỹ thuật theo yêu cầu đổi mới công nghệ và có tác động tích cực đến xã hội. Phương pháp luận và một số kết quả thực hiện của phương pháp cho thấy sự phù hợp của phương pháp CDIO.
Quốc tế hóa là xu hướng tất yếu của hệ thống giáo dục đại học, có tầm quan trọng chiến lược đối với các tổ chức giáo dục đại học trên toàn thế giới. Tại Việt Nam quốc tế hóa giáo dục đại học nhận được nhiều sự quan tâm của nhà nước và xã hội. Quá trình quốc tế hóa trong bối cảnh CDIO chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cao hơn cho các cơ sở giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo và tiếp cận với mô hình quản trị giáo dục tiên tiến. Bài báo này trình bày về các hoạt động hướng đến quốc tế hóa được phân phối trên 12 tiêu chuẩn CDIO hiện có. Bên cạnh đó cũng trình bày những kiến nghị chính sách quốc tế hóa giáo dục đại học ở Việt Nam trong thời công nghệ 4.0.