Thu Dau Mot University Journal of Science


Search Papers

Choose the options

Select form Topic

AND

Select Year

And type your research interest


345 papers


Đề xướng CDIO: C (Conceive): Hình thành ý tưởng, D (Design): Thiết kế, I (Implement): triển khai, O (Operate): vận hành. Ở tiêu chuẩn 8 - Học tập chủ động và trải nghiệm, với tinh thần của tiêu chuẩn này, nhóm tác giả thực hiện bài viết ứng dụng tiêu chuẩn 8 vào học phần xây dựng hệ thống quản lý môi trường – ISO 14001có tính chất thực hành nhằm phân tích cách thức thực hiện tiêu chuẩn theo tinh thần của đề xướng. Trong học phần thực hành, Giảng viên hướng dẫn sinh viên học tập chủ động bằng cách giao cho sinh viên chọn lựa một địa điểm mà sinh viên dễ dàng tiếp cận thực hiện phân tích các điều khoản và xây dựng hệ thống. Đối với tiêu chuẩn quốc tế ISO 14001 thì việc hiểu tiêu chuẩn đã khó, tiếp cận một đơn vị để ứng dụng việc hiểu của mình còn khó hơn. Với việc xây dựng được hệ thống quản lý môi trường, buộc sinh viên phải được tiếp cận gần nhất với đơn vị, được đơn vị tiếp nhận và tạo điều kiện quan sát làm bài. Việc giảng viên cho sinh viên lựa chọn bất kỳ đơn vị nào, và khuyến khích sinh viên chọn các đơn vị là những nơi sinh viên đang làm thêm, nơi quen biết để sinh viên có nhiều điều kiện để quan sát và thực hành.
Theo những tiêu chuẩn về chương trình CDIO (tiêu chuẩn 3:1 và 3:2) quy định sự cần thiết để tập trung vào xây dựng đội ngũ nhóm và kỹ năng giao tiếp cho người học. Trong đó việc chuẩn hóa giáo dục trong kỹ thuật sẽ bổ sung thêm những kỹ năng cần thiết trong giao tiếp. Dựa vào những khía cạnh hiệu quả mang lại từ chương trình, trường Đại học Công nghệ Đồng Nai (DNTU) đang nghiên cứu để áp dụng tiêu chuẩn CDIO mới để quốc tế hóa môi trường giáo dục tại DNTU. Các công ty hợp tác với DNTU cũng đề xuất sinh viên tốt nghiệp phải có kỹ năng giao tiếp với người nước ngoài để có nhiều cơ hội việc làm cho các công ty nước ngoài. Mục đích của nghiên cứu này là để phân biệt các yếu tố văn hóa từ các đất nước, vùng miền khác nhau ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc nhóm của sinh viên để từ đó nhận ra các vấn đề và các yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp đa văn hóa mà sinh viên gặp phải. Kết quả của nghiên cứu sẽ là tài liệu hữu ích cho việc áp dụng chương trình CDIO 3:1 và 3:2 tại DNTU.
Quá trình đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở Việt Nam được đánh giá là một xu thế tất yếu, mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và người lao động. Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thích ứng và đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải không ngừng đổi mới, cải tiến chương trình đào tạo, phương pháp tiếp cận và giảng dạy. Qua đó thu hẹp khoảng cách giữa chất lượng đào tạo và nhu cầu của các doanh nghiệp. Song song với đó, về phía người học cần nhận thức được tầm quan trọng của việc chủ động lĩnh hội tri thức, bổ sung và rèn luyện kỹ năng, để sau quá trình đào tạo sẵn sàng và đáp ứng được các tiêu chuẩn về năng lực làm việc của doanh nghiệp. Bài viết tập trung vào thực trạng kỹ năng mềm của sinh viên trường Đại học Thủ Dầu Một và đề xuất một số biện pháp phát triển kỹ năng mềm đạt chuẩn đầu ra theo CDIO.
Bài báo này mục đích giới thiệu các thông tin chung về bộ tiêu chuẩn ABET và đặc biệt tập trung vào đánh giá chuẩn đầu ra. Trên cơ sở phân tích các chương trình kỹ thuật trên thế giới và Việt Nam, nhóm tác giả thực hiện lựa chọn quy trình phù hợp để áp dụng cho chương trình kỹ thuật dầu khí của Trường Đại học Dầu khí Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, quy trình đánh giá ABET giúp tạo ra một chu trình cải tiến hoàn chỉnh và người học có thể được đón nhận một sản phẩm tốt, chuẩn bị chu đáo khi bước vào thị trường lao động tại Việt Nam và trên thế giới. Phương pháp đánh giá trực tiếp và gián tiếp trong 1 năm cho kết quả khá tương đồng và đạt kì vọng đặt ra. Bên cạnh đó, quá trình đánh giá cũng đưa ra một số giải pháp cải tiến cho một số học phần chưa đạt chuẩn đầu ra của học phần cho giai đoạn tiếp theo.
Bài viết này đề cấp đến cách thực hiện để nâng cao năng lực về kỹ năng, giảng dạy cho giảng viên tại trường Đại học Công nghệ Đồng Nai nhằm mục đích thực hiện tốt việc đào tạo theo định hướng CDIO.Trường đại học có các ngành khối kỹ thuật chiếm trên 50% tổng số các ngành đào tạo nên việc triển khai công tác đào tạo theo hướng tiếp cận CDIO đã được nhà trường chú trọng phát triển trong nhiều năm gần đây. Từ việc mời chuyên gia nước ngoài có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy theo phương pháp CDIO về tập huấn cho đội ngũ giảng viên cách cập nhật chương trình đào tạo theo phương pháp CDIO, cách triển khai một học phần theo phương pháp CDIO đến việc mời chuyên gia trong nước đến tập huấn mô hình giảng dạy CDIO, tập huấn xây dựng chuẩn đầu ra chương trình đào tạo theo mô hình CDIO… Tất cả đã thu được các kết quả đáng mong đợi. Từ kết quả này, chúng tôi muốn chia sẻ cách làm của Trường để góp phần nâng cao hơn nữa tinh thần đoàn kết và sự hợp tác trên mọi phương diện.
The Southeast plays a very important role in Vietnam’s economic development. Despite a high concentration of social scientists in the Southeast region, there remains a paradox that the Southeast culture has not been sufficiently researched into. Applying the method of cultural zoning based on the changes of the three dimensions Subject – Space - Time developed by the author, the article concludes that the Southeast is a separate cultural zone besides the Southwest and lists some typical characteristics of the Southeast in terms of cultural elements (focusing on the organizational culture) and the system of cultural personality characteristics of Vietnamese people in the Southeast. An analysis of the Human Development Index (HDI) of the Southeast shows that this development is unbalanced and unsustainable. To achieve balance and sustainability, more investment must be made on the culture and the people; community-village type behaviors should be replaced by community-society type behaviors; and the urban way of living, the urban culture and good urban citizen character should be promoed while limiting the rural/agricultural lifestyle and characteristics.
Binh Duong has rapidly transformed during the period 1999-2009, from a agricultural province to industrial one. The paper explores the shift of occupation-based social structure of Binh Duong during that period. Using the data sets of Census 1999 and 2009, the paper analyses the evolution of the occupational figure in Binh Duong by ten occupational categories and four occupational strata, and the differences in this figure by residence, gender, ethnic, and religious variables. Findings show that the occupational structure of Binh Duong is more developed than the one of the Southern Key Economic Zone. Its change in rural areas is more significant than in urban areas. There are not considerable differences by gender, ethnicity, and religiousness. The findings are suggestive for a further analysis using the data set of Census 2019 on the evolution of occupational figures in Binh Duong during the previous twenty years (1999-2019).
In 2014, Binh Duong has 2.885 the Khmer people, being the second largest ethnic minority compared to the Hoa people. They have contributed to the multi-ethnic culture of Binh Duong. Hundreds of works on the Khmer in the Mekong Delta considered their culture as a typical of Theravada Buddhist culture in Vietnam but this proposition is not suitable for the Khmer community in An Binh, Phu giao district who is this object of this study. By qualitative data sources from in-depth interviews, participant observations and approach to the historical particularism, this study documented the cultural characteristics of the Khmer in An Binh and analyzed the factors that make culture of the Khmer in An Binh different from the culture of the Khmer in the Mekong Delta. Natural conditions and socio-historical context make the cultural practices of the Khmer in An Binh more similar to the culture of the ethnic groups in the Central Highlands than the Khmer culture in the Mekong delta, especially, customs and folk beliefs.

Interpretations about Hoa Anh state

Nguyễn Văn Giác
DOI:
On the basis of coordinating the sources of history materials from Vietnam and China, together with the latest archaeological achievements of Ho citadel, the article has delineated territory, confirmed the chronology frame with the Kings of this kingdom in relation to post-Champa Empire. It is from the aftermath of Vijaya, the two parts of Aryaru (Phu Yen) and Kauthara (Khanh Hoa) belong to Hoa Anh Kingdom, in which, Le Thanh Tong is crowned as Ban La Tra Duyet; the rebellion of this King is the cause for the second conquest, formally taking Ling Chan/ Da Bia as the landmark; Trai A Ma Phat Am is designated as Hoa Anh’s King on the remaining land of Kauthara, but immediately incorporated into Panduranga, forming the state of post-Champa.

Publication Information

Publisher

Thu Dau Mot University, Viet Nam

Editor-in-Chief

Assoc. Prof. Nguyen Van Hiep
Thu Dau Mot University

Editorial Board

Assoc. Prof. Le Tuan Anh
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Quoc Cuong
Thu Dau Mot University

PhD. Doan Ngoc Xuan
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Khoa Truong An
Thu Dau Mot University

Assoc. Prof. Nguyen Thanh Binh
Thu Dau Mot University
PhD. Le Thi Thuy Dung
Thu Dau Mot University

PhD. Ngo Hong Diep
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Duc Dat Duc
Ho Chi Minh City University of Industry and Trade

Assoc. Prof. Nguyen Van Duc
Animal Husbandry Association of Vietnam
PhD. Nguyen Thi Nhat Hang
Department of Education and Training of Binh Duong Province

PhD. Nguyen Thi Cam Le
Vietnam Aviation Academy
PhD. Trần Hạnh Minh Phương
Thu Dau Mot University

M.A. Pham Van Thinh
Thu Dau Mot University
PhD. Nguyen Thi Lien Thuong
Thu Dau Mot University

Prof. Le Quang Tri
Can Tho University
Prof. Banh Quoc Tuan
Thu Dau Mot University